Cho đến tận nay đã hơn bốn trăm năm mà nhân dân xứ Quảng vẫn còn tự hào và
tôn vinh một người thôn nữ rất mực xinh đẹp và đôn hậu chuyên nghề trồng dâu,
nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa ở làng Chiêm Sơn, thuộc Tân Dân, tổng Mông Lĩnh,
huyện Diên Khánh, phủ Điện Bàn, dinh Quảng Nam nay là làng Chiêm Sơn, xã Duy
Trinh, huyện Duy Xuyên là Đoàn Thị Ngọc mà nhân dân thường gọi với cái tên kính
ngưỡng là Bà Chúa Tàm Tang Xứ Quảng
và về sau được Phủ Chúa phong tước là Đoàn
Quý Phi.
Cô thôn nữ Đoàn Thị Ngọc là con gái thứ
ba của ông Đoàn Công Nhạn, một hào trưởng ở làng Chiêm Sơn và bà thứ thất Võ
Thị Thành, sinh năm 1601. Cuộc đời của cô gái trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt
lụa ở làng Chiêm Sơn, bên bờ sông Thu Bồn có một giai thoại nên thơ đã đi vào
truyền thuyết dân gian và sử sách Triều Nguyễn.
Sách "Đại Nam Liệt truyện Tiền
biên” của Triều Nguyễn đã viết về người thôn nữ đó và mối tình thơ mộng của
mình, về sau trở thành Quý Phi: "Bà
là người con thứ ba của Thạch Quân Công Đoàn Công Nhạn. Mẹ là phu nhân Võ Thị.
Bà là người minh mẫn thông sáng..., sáng thơm, tú mị, phép tốt trinh thuần” và
"Năm mười lăm tuổi (Bà) hái dâu bên bãi, trông trăng mà hát. Bấy giờ Huy
Tông Hoàng Đế (tức Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) đi chơi Quảng Nam, Thần
Tông Hoàng Đế (tức Chúa Thượng Nguyễn
Phúc Lan) theo đi hộ giá. Đêm đáp thuyền chơi trăng, đỗ thuyền ở Điện Châu, bây
giờ là An Phú Tây câu cá, nghe tiếng hát lấy làm lạ, sai người đến hỏi, biết là
con gái họ Đoàn, cho tiến vào hầu Chúa ở tiềm để, được yêu chiều lắm”.
Truyền thuyết dân gian Xứ Quảng cũng đã
kể lại rằng vào một đêm trăng đẹp năm 1615, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên trong
một chuyến tuần du Quảng Nam đã cùng Hoàng tử thứ hai lúc đó khoảng 15 tuổi là
Nguyễn Phúc Lan, dạo thuyền trên sông Thu Bồn. Khi thuyền rồng ngược dòng sông
từ Dinh trấn Thanh Chiêm đến thôn Điện Châu, châu Đông Yên, Duy Trinh, huyện
Duy Xuyên Duy Xuyên thì nghe một giọng hát trong ngần và quyến rũ của một thôn
nữ từ một nương dâu bên bờ sông vọng tới theo làn gió mát. Cô gái hát rằng:
Tai nghe Chúa ngự
thuyền rồng,
Thiếp thương phận
thiếp má hồng nắng mưa...
Một lúc sau, cô gái lại hát tiếp:
Thuyền rồng Chúa ngự
nơi đâu,
Thiếp thương phận
thiếp hái dâu một mình...!
Giọng hát và lời ca của cô thôn nữ
trong đêm thanh vắng đã làm rung động tâm hồn và xao xuyến trái tim của hoàng
tử đa cảm Nguyễn Phúc Lan. Được phép của vương phụ, hoàng tử cho thuyền rồng men theo triền sông
đi tìm tiếng hát. Khi lên bờ, bên bóng dâu xanh thắm nhuộm ánh trăng vàng,
chàng trai vương bá đem lòng say đắm người thục nữ kiều diễm vừa độ trăng tròn
rất mực đôn hậu là Đoàn Thị Ngọc, ái nữ của hào trưởng Đoàn Công Nhạn. Hình như
cuộc kỳ ngộ này đã được sắp xếp từ trước bởi bàn tay Ông Tơ Bà Nguyệt xe duyên.
Hoàng tử Nguyễn Phúc Lan cùng cô thôn
nữ Đoàn Thị Ngọc đã bén duyên nhau ở tuổi mười lăm và kết duyên trăm năm vào
tuổi mười bảy và ban đầu họ chung sống cùng nhau tại Dinh trấn Thanh Chiêm.
Trong thời gian này, Dinh trấn Thanh
Chiêm do Thế tử Hữu Phủ Chưởng Phủ Sự Nguyễn Phúc Kỳ, Hoàng tử trưởng của Chúa
Nguyễn Phúc Nguyên, làm quan trấn thủ từ năm 1614. Sau khi lập gia thất một
thời gian, Hoàng tử Nguyễn
Phúc Lan được phong tước Nhân Lộc Hầu.
Sau khi trở thành phu nhân Nhân Lộc Hầu
Nguyễn Phúc Lan, Bà Đoàn Thị Ngọc bắt đầu quan tâm đến việc khuyến khích phát
triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa truyền thống trên quê hương Xứ
Quảng.
Đến ngày 22.7.1631, Thế tử Hữu Phủ
Chưởng Phủ Sự Nguyễn Phúc Kỳ qua đời còn quá trẻ, hưởng thọ 31 tuổi và Chúa
Nguyễn Phúc Nguyên đã cử Hoàng tử Nguyễn Phúc Anh làm quan trấn thủ Quảng Nam
dinh và sau đó quyết định lập Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan làm Thế tử và phong
tước Nhân Quận Công.
Sau khi Chúa Sãi băng hà ngày
19.11.1635, Thế tử Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng và sống
cùng với phu nhân ở Phủ Chúa tại Phú Xuân. Bà Đoàn Thị Ngọc được Chúa Thượng
Nguyễn Phúc Lan phong tước là Đoàn Quý Phi và thân phụ Đoàn Công Nhạn
của Bà cũng được phong tước là Thạch Quận Công.
Sau khi Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 –
1635) quyết định Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan làm Thế tử để lên ngôi Chúa nối
ngôi mình thì bà Tống Thị Toại, phu nhân của Thế tử Nguyễn Phúc Kỳ đã qua đời,
là con gái của Mậu Lễ Hầu Tống Phúc Khang, một vị quan to ở Phủ Chúa, là một
người đàn bà có sắc đẹp nhưng đa đoan, cho rằng con trai bà phải là Thế tử nối
nghiệp chồng lên ngôi Chúa, nên âm mưu cướp ngôi Chúa. Bà tìm mọi thủ đoạn để
mê hoặc bằng sắc đẹp của mình và chiếm
trái tim của Chúa Hiền Nguyễn Phước Lan, đồng thời dựa vào uy quyền của Chúa để
chiếm đoạt tài sản của dân. Về sau, nhờ có quan Nội Tán Viên Hiền Hầu họ Phạm
dùng lời lẽ đanh thép khuyên can, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan mới rời bỏ được
Tống Thị Toại.
Đoàn Quý Phi sinh hạ được ba hoàng tử
và một công chúa. Hoàng tử thứ nhất Nguyễn Phúc Võ và hoàng tử thứ ba Nguyễn
Phúc Quỳnh đều qua đời sớm, hoàng tử thứ hai Nguyễn Phúc Tần làm quan trấn thủ
Quảng Nam dinh vào năm 1638 và sau đó trở thành Thế tử.
Còn công chúa út, theo hồi cố của các
trưởng lão tộc Đoàn ở làng Chiêm sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên có nhiều
tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là Nguyễn Phúc Ngọc Dung và có dị tật
bẩm sinh, đã hạ giá với Chưởng Cơ tên là Minh và cũng đã mất sớm.
Về cuối đời, không rõ năm nào, Đoàn Quý
Phi rời Phủ Chúa ở Kim Long, Phú Xuân quay trở về sống ở Dinh trấn Thanh Chiêm,
Quảng Nam cùng với con cháu, bà con trên quê hương mình. Người ta cho rằng có
thể có hai nguyên nhân đã làm Bà quay về
Xứ Quảng: Thứ nhất, Bà muốn sống gần gũi với làng quê, nơi có mồ mả ông
bà, cha mẹ và các con trai cùng con gái đã qua đời quá sớm. Thứ hai, sâu lắng
hơn là vào năm 1639, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đã đem lòng say đắm người chị
dâu trẻ, xinh đẹp góa bụa Tống Thị Toại nên Bà muốn xa lánh cảnh đau lòng này.
Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan băng hà vào
ngày 26.2 năm Mậu Tý 1648 và Thế tử Dũng Lễ Hầu Nguyễn Phúc Tần lên ngôi Chúa
và trở thành Chúa Hiền (1648 – 1687).
Sau khi Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan qua
đời, bà Tống Thị Toại đã mật cử người ra Đàng Ngoài dâng thư lên Chúa Trịnh
Tráng (1623 – 1637) xin cất quân đánh chiếm Đàng Trong và thị sẽ đem gia sản
của mình để nuôi quân Chúa Trịnh. Nhận được sự hậu thuẫn đó, ngay năm 1648,
Chúa Trịnh Tráng đã đem quân đánh Đàng Trong lần thứ tư. Chúa Hiền Nguyễn Phúc
Tần đã chỉ huy đại quân đánh địch và giành thắng lợi hoàn toàn, bắt được một số
tướng và 3.000 quân Trịnh và vô tình phá tan được âm mưu vô cùng thâm độc của
Tống Thị Toại.
Đến năm Giáp Ngọ 1654, Tống Thị Toại
mua chuộc và được Chưởng dinh Quảng Nam Nguyễn Phúc Trung là chú ruột của Chúa
Hiền Nguyễn Phúc Tần ủng hộ làm phản để cướp ngôi Chúa, nhưng âm mưu này đã bị một thuộc hạ của Chưởng dinh
Nguyễn Phúc Trung là Thắng Bố tố cáo. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần liền ra lệnh
bắt giữ Chưởng dinh Nguyễn Phúc Trung đem giam vào ngục và cho xử trảm Tống Thị
Toại tại Dinh trấn Thanh Chiêm, tịch thu toàn bộ gia sản của thị đem phân phát
cho quân và dân, đồng thời ra lệnh đốt danh sách "đồng tâm hướng thuận”
gồm những người bị Tống Thị Toại lôi kéo tham gia làm phản để yên lòng sĩ dân,
làm cho Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần càng được nhân dân kính phục.
Có lẽ việc trừng trị đích đáng Tống Thị
Toại bởi con trai mình đã làm cho mẫu hậu Đoàn Quý Phi hết sức hài lòng trong
những năm cuối đời.
Sau mười ba năm ngày qua đời của Chúa
Thượng Nguyễn Phúc Lan, Đoàn Quý Phi mất vào ngày 17.5 Tân Sửu tức ngày
12.7.1661, hưởng thọ sáu mươi tuổi. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đã mai táng mẫu
hậu tại Gò Cốc Hùng ở tổng Mông Lĩnh, cách Lăng mộ của Hoàng Hậu Mạc Thị Giai,
hậu của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chừng nửa cây số và cách không xa mộ của Công
chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung.
Năm 1806, vua Gia Long truy tôn Đoàn
Quý Phi là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Hiếu Chiêu Hoàng Hậu và khắc tên
vào Kim sách (sách bằng vàng) của Hoàng tộc và tôn hiệu này được thờ phụng với Hiếu
Chiêu Hoàng Đế (tức Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan) trong gian bên phải của
Thái Miếu ở Huế.
Về phần Lăng mộ của Hiếu Chiêu Hoàng
Hậu Đoàn Thị Ngọc, sách Đại Nam
Nhất Thống Chí đã cho biết "Năm Gia Long thứ năm (1606) dâng tên lăng
là Vĩnh Diên” để phân biệt với Lăng mộ của Hiếu Văn Hoàng Hậu Mạc Thị
Giai là Vĩnh Diễn”. Lăng Vĩnh Diên được nhân dân địa phương gọi là Lăng
Trên còn Lăng Vĩnh Diễn thì gọi là Lăng Dưới.
Khoảng năm 1824, vua Minh Mạng đã cho
xây dựng thêm ở giữa Lăng Vĩnh Diễn và Lăng Vĩnh Diên một ngôi chùa làm nơi thờ
cúng cho hai Hoàng Hậu, gọi là Chùa Vĩnh An mà sớm.
Khoảng năm 1824, vua Minh Mạng đã cho
xây dựng thêm ở giữa Lăng Vĩnh Diễn và Lăng Vĩnh Diên một ngôi chùa làm nơi thờ
cúng cho hai Hoàng Hậu, gọi là Chùa Vĩnh An mà nhân dân địa phương
thường gọi là Chùa Vua hay Chùa Ngự. Dưới thời Triều Nguyễn hàng năm, các vua
Nhà Nguyễn đều đến cung yết Lăng mộ hai Hoàng Hậu và Chùa Vĩnh An tại xã Duy
Trinh.
Bên cạnh việc mai táng mẫu hậu một cách
chu đáo, xây Lăng Vĩnh Diên, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần còn xây dựng Nhà thờ
Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu tại thôn Đông giáp, làng Đông Yên bên bờ sông
Thu Bồn, gần sát với Dinh trấn Thanh Chiêm, nay thuộc thôn Đông Khương 2, xã
Điện Phương, huyện Điện Bàn.
Trận lụt lớn sông Thu Bồn năm Canh Thân
1680 dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Tần năm thứ 32 đã làm Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu
Hoàng Hậu bị hoàn toàn hủy hoại do đất bị sạt lở ở ngay giữa làng Đông Yên.
Đến dưới thời Chúa Ninh Vương Nguyễn
Phúc Thụ (1725 – 1738) vào khoảng năm 1730, Nhà Thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu
đã được xây dựng lại lần thứ hai trên đất Đông Yên và lùi xa bờ sông Thu Bồn.
Một thời gian sau, do bờ sông Thu Bồn
tiếp tục bị sạt lở, làm Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị hư hại phần tiền
sảnh.
Sau khi chiếm Xứ Quảng vào cuối năm
1774, quân Tây Sơn đã triệt phá hoàn toàn Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu
và Chùa Bảo Châu Sơn Tự ở Trà Kiệu do Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào
năm 1617. Sau khi đánh thắng quân Tây Sơn, thống nhất đất nước và lên ngôi năm
1802, vua Gia Long (1802 – 1820) đã cho xây dựng lại Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu
Hoàng Hậu khang trang hơn trước tại Bãi Bắc ở Đông Yên Đông.
Đến năm Nhâm Thìn 1894, dưới thời vua
Thành Thái (1889 – 1907) nhà vua đã cấp 1.000 lạng bạc để xây lại phần hậu tẩm
Nhà Thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị xuống cấp và dưới thời vua Bảo Đại
(1926- 1945), Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu cũng đã được trùng tu năm
1930.
Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ thắng lợi, Nhà thờ Đức Bà Hiếu Chiêu Hoàng Hậu bị xuống cấp nặng, Hội
đồng Gia tộc Đoàn tộc Quảng Nam đã vận động bà con đóng góp tài chính và đã
tiến hành đại trùng tu, làm cho Nhà thờ Đức Bà Chiếu Chiêu Hoàng Hậu được khang
trang như ngày nay.
Về Chùa Vĩnh An, sau cách mạng tháng
8.1945, do không có người chăm sóc đã dần dần bị hư hại hoàn toàn. Về Lăng Vĩnh
Diên của Hiếu Chiêu Hoàng Hậu đến nay đã bị xuống cấp nặng như báo chí ở địa
phương và trung ương đưa tin và đề nghị chính quyền tỉnh Quảng Nam quan tâm
khắc phục, bởi vì đây là một di tích văn hóa lịch sử cổ xưa nhất của Nhà Nguyễn
còn tồn tại đến nay trên đất Quảng Nam và đã được công nhận là Di tích lịch
sử văn hóa của tỉnh.
Quí vị và các bạn vừa
nghe phần đầu bài “Hoàng hậu Đoàn Thị
Ngọc- Bà Chúa Tàm Tang trong sự nghiệp phát triển nghề tằm tơ xứ Quảng”. Mời
quí vị và các bạn đón nghe tiếp phần còn lại bài này trong chuyên mục “ Đất và
Người Duy Xuyên” thứ ba, ngày 28/5/2013.
Ngày nay, hàng năm vào ngày 17.5 âm
lịch, tại làng Chiêm Sơn quê hương Bà và
Nhà thờ Bà ở làng Đông Khương 2, tộc Đoàn Quảng Nam đã tổ chức Lễ tưởng niệm
Đoàn Quý Phi – Hiếu Chiêu Hoàng Hậu một cách trang trọng.
Bà Chúa Tàm
Tang trong sự nghiệp phát triển nghề tơ tằm Xứ Quảng
Xứ Quảng vốn là một khu vực địa chất
nằm giữa hai khối kiến tạo lớn là địa khối uốn nếp Trường Sơn Bắc và rìa bắc
của địa khố i Kontum thuộc Trường Sơn Nam, nhờ sự phún xuất dung nham nên lòng
đất Xứ Quảng có nhiều khoáng sản và màu mỡ hơn so với các vùng đất phía bắc và
phía nam.
Lê Quý Đôn đã đánh giá sự giàu có của
Xứ Quảng rằng "Xứ Quảng là đất phì nhiêu nhất thiên hạ”.
Vì vậy, từ xưa Xứ Quảng đã là một vùng
đất nổi tiếng về nông nghiệp phát triển, trong đó có nghề tơ tằm, một vùng đất
nổi tiếng từ lâu "đàn ông trồng dâu, đàn bà dệt lụa”.
Vốn là một người lao động xuất thân từ
một làng quê mà nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa là một nghề cha
truyền con nối, nên cô thôn nữ làng Chiêm Sơn Đoàn Thị Ngọc đã sớm thành thạo
và đam mê nghề nghiệp của cha ông.
Sau khi trở thành phu nhân phu nhân
Nhân Lộc Hầu Nguyễn Phúc Lan ở Dinh trấn Thanh Chiêm và cả sau khi trở thành
Đoàn Quý Phi quay trở về sống trên quê hương trong những năm cuối đời, Bà luôn
luôn khuyến khích bà con nông dân ở các phủ huyện của quê hương mình phấn đấu
trồng thật nhiều dâu, nuôi thật nhiều tằm, sản xuất thật nhiều tơ và lụa để bán
ra nước ngoài nhằm cải thiện đời sống.
Thỉnh thoảng Bà đi thuyền từ Dinh trấn
Thanh Chiêm và ngược dòng sông Thu Bồn và cả sông Vu Gia đến tận các làng xã tơ
tằm ở ven đôi bờ các con sông đó để thăm hỏi, chuyện trò, trao đổi kinh nghiệm
trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa với bà con nông dân khuyên bảo họ một cách ân cần
và thân mật, nên được bà con nồng nhiệt tiếp đón một cách trọng thể và một lòng
nghe theo.
Nhờ vậy, dần dần ở những làng xã nằm
dọc hai bên sông Thu Bồn, Vu Gia, Ba
Kỳ... các nương dâu xanh thắm mênh mông chạy tít đến tận chân trời. Khắp xứ
Quảng, nghề tơ tằm trở nên phổ biến và phát triển, nhưng tập trung và nổi tiếng
hơn cả là ở phủ Điện Bàn, huyện Duy Xuyên, huyện Đại Lộc và phủ Hà Đông.
Từ xa xưa, văn học dân gian Xứ Quảng đã
cho thấy những làng Đông Yên, Thi Lai, Tứ Mã, Phú Bông, Xuân Đài, Phú Triêm,
Vĩnh Điện .v.v.. là những làng tơ tằm nổi tiếng của phủ Điện Bàn
Dưới thời Bà Đoàn Quý Phi ở Xứ Quảng
trong một năm có hai vụ dâu tằm tơ lụa: vụ hè từ tháng 4 – 6 âm lịch và vụ
đông từ tháng 10 – 12 âm lịch. Nông dân đã biết kết hợp các kinh nghiệm của
cha ông từ Đàng Ngoài truyền lại với các kinh nghiệm trồng dâu nuôi tằm (giống
dâu, giống tằm) của người Chămpa cũng như bí quyết dệt lụa của người Minh Hương
để tạo ra được một nguồn tơ sống phong phú và nhiều mặt hàng lụa có chất lượng
cao.
Nguồn tơ sống của Xứ Quảng vào thời kỳ
ấy dưới thời Chúa Nguyễn quả thật là dồi dào mà Giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã
đến Hội An vào cuối năm 1624 đã nhìn thấy như vậy và ông đã có nhận xét "Ở
Đàng Trong nhiều tơ lụa đến nỗi còn dùng để đan lưới và bện dây thuyền”.
Tận mắt nhìn thấy những cánh đồng trồng
dâu mênh mông để nuôi tằm lấy tơ sống trên Xứ Quảng mà Giáo sĩ Christoforo
Borri đến Cửa Hàn năm 1618 đã viết: "Người Đàng Trong không những cung cấp
tơ cho nhu cầu của họ mà còn cung ứng cho Nhật Bản và đưa sang Vương quốc Lào
để từ đó người ta lại chuyển đến Tây Tạng, bởi lẽ loại tơ này tuy không nhỏ mịn
bằng loại tơ của Trung Hoa nhưng bền chắc hơn nhiều”.
Từ đó, Xứ Quảng sản xuất được nhiều mặt
hàng lụa với nhiều kiểu dệt khác nhau, sợi mịn hay thô, mỏng hay dày, trơn hay
có hoa văn, nhuộm màu hay không, có chất lượng cao hay thấp, được chia thành
nhiều sản phẩm khác nhau: trừu là loại lụa thô và to sợi; lượt là
loại lụa thưa và trơn; sa là loại lụa mỏng và trơn; the là loại
nhẹ màu sáng; xuyến là loại lụa trơn dày hơn, màu sáng; nhiễu là
loại lụa trơn, dày và bền; là là loại lụa dệt bằng tơ nõn với những
đường sọc nhỏ cách đều và nhuộm đen; lãnh là lụa trơn, dày và nhuộm đen;đoạn cũng là loại lãnh nhưng chất lượng tốt hơn; vóc là loại lụa
bóng mịn, có dệt hoa; văn là loại lụa dày có dệt hoa lớn, chất lượng cao
hơn và gấm là loại lụa hoa cao cấp.
Trong sách "Phủ Biên Tạp Lục”
Lê Quý Đôn đã đánh giá cao chất lượng lụa của Xứ Quảng và đã viết " Các vóc,
sa, lãnh, gấm, trừu cải hoa rất khéo” và "Người phủ Thăng, phủ Điện dệt được các thứ the, đoạn,
lụa, là hoa hòe tinh xảo chẳng kém gì Quảng Đông”.
Vì vậy, hàng năm Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558 – 1613) đã chọn lụa của Xứ
Quảng để làm tặng phẩm, vật cống cho vua Lê. Về vấn đề này, Lê Quý Đôn đã viết:
"Ở Quảng Nam,
lụa thuế chỉ lấy ở hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn. Phủ Điện Bàn, huyện Phú Châu
nộp thuế hai ngàn ba trăm lẻ năm tấm... Lụa mà Đoàn Quận Công lấy để cống phù
thì rộng một thước bảy tấc, dài ba mươi thước, dày như nấm sợi. Phủ Thăng Hoa,
thuộc Hóa châu, hàng năm nộp lụa thuế tám trăm lẻ chín tấm, lụa lễ mười một
tấm; thuế là để dâng lên (vua) lễ là để biếu quan trên”.
Lịch sử cho thấy dưới thời Chúa Nguyễn,
hàng năm tơ sống và các loại lụa của Xứ Quảng và Đàng Trong đã được xuất khẩu
cho các nước Đông Nam Châu Á và phương Tây qua cảng thị Hội An tại Hội chợ quốc
tế kéo dài từ tháng hai cho đến tháng sáu âm lịch.
Hàng năm, các tàu thuyền của Nhật Bản,
Bồ Đào Nha, Hà Lan.v.v... đã đến đây để mua tơ sống và các loại lụa; riêng các
tàu thuyền của Trung Hoa thường chỉ mua tơ sống. Trong số tàu thuyền nước ngoài
đến buôn bán tại cảng thị Hội An trong các thế kỷ XVII – XVIII thì Thuyền Châu
Ấn của Nhật Bản đến mua nhiều tơ và lụa nhất. Li Tana viết về vấn đề này rằng:
"Người Nhật đến Đàng Trong trước tiên là vì tơ lụa. Họ có thể mua tơ lụa ở
đây dễ dàng hơn nơi khác vì tại cảng thị
Hội An có một số người Nhật sinh sống và những người Nhật này có thể thu gom tơ
sống trước khi tàu của họ tới”.
Theo Nhà nghiên cứu Nhật bản Morimoto
Asako, trong một bài viết vào đầu năm 1997 cũng cho biết " Giữa thế kỷ
XVI, những trao đổi thương mại giữa Nhật Bản và Đại Việt dựa trên cơ sở chủ yếu
là việc nhập khẩu tơ của Đại Việt”.
Tác giả W. M Bush cũng cho biết vào năm
1677 có bốn tàu Nhật Bản nhổ neo từ cảng thị Hội An để chở về Nagasaki nhiều tơ
sống và lụa tơ tằm. Cũng theo tác giả đó, năm 1633, đã có hai tàu Hà Lan đến
cảng thị Hội An mua về nhiều tơ lụa và năm 1634 một tàu Hà Lan xuất phát từ Batavia đến cảng thị Hội An đã mua tơ lụa
nhưng gặp phải nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của người Nhật Bản.
Theo báo Cambridge University Press của
Anh từ 1604 – 1635 đã có 124 tàu buôn Nhật Bản cập bến cảng thị Hội An để mua
tơ lụa và các mặt hàng khác.
Li Tana cũng cho biết "Từ 1633 –
1637, mỗi năm Hà Lan có hai tàu đến Đàng Trong trong việc mua tơ, nguồn lợi
chính của họ, nhưng họ không địch lại nổi với người Nhật Bản”.
Nói tóm lại, trong những thế kỷ XVII –
XVIII, nhờ một vị thế địa lý thuận lợi, nhờ tổ chức một hội chợ quốc tế hàng
năm kéo dài nhiều tháng, nhờ một tiềm năng kinh tế nội địa dồi dào, cảng thị
Hội An đã trở thành một trung tâm trung chuyển của con đường tơ lụa quốc tế
xuyên đại dương, nối liền phương Đông với phương Tây trong thời kỳ Trung Đại
của lịch sử.
Chúng ta có thể đánh giá một cách khách
quan rằng sở dĩ nghề tàm tang Xứ Quảng trong các thế kỷ XVII – XVIII dưới thời
Chúa Nguyễn đã thực sự ngày càng phát triển và đã tạo ra được những sản phẩm tơ
tằm có khối lượng lớn và chất lượng cao, một mặt là nhờ môi trường đất đai màu
mỡ, nhân dân cần cù lao động, mặt khác còn nhờ công đức to lớn của một người phụ nữ xinh đẹp là Đoàn Thị
Ngọc – Đoàn Quý Phi – Hiếu Chiêu Hoàng Hậu mà nhân dân Xứ Quảng quen gọi với
tấm lòng kính mến và ngưỡng mộ là Bà Chúa Tàm Tang, đã hết lòng khuyến khích sự
phát triển nghề tàm tang trên quê hương mình.
Có lẽ hiếm có một nữ nhân vật lịch sử
nào ở Đất Quảng đã để lại những ấn tượng và tình cảm sâu đậm trong đời sống tâm
linh của người dân Đất Quảng như Bà Chúa Tàm Tang – Đoàn Quý Phi – Hiếu Chiêu
Hoàng Hậu Đoàn Thị Ngọc. Công đức đối với nghề tàm tang trên quê hương cũng như
thiên diễm tình một thời vang bóng của Bà vẫn còn âm vang cho đến tận ngày nay
mà các cô gái trên quê hương Bà vẫn hát:
Thuyền rồng mái đẩy
đi đâu
Để cho em đứng hái
dâu một mình...!