Làng chằm nón Mỹ Xuyên, xã Duy An, nay là thị trấn Nam Phước có nghề chằm nón
lá lâu đời. Ngày nay, nghề chằm nón lá đang dần bị mai mọt.
Những
dân binh ở Thanh Hóa đầu tiên vâng lệnh vua Lê Thánh Tông theo chân đề đốc Hùng
Long Hầu Lê Quý Công vào lập nên làng Mỹ Xuyên đã mang theo nghề chằm nón vốn
có ở vùng Thanh Nghệ từ trước vào miền đất mới. Ban đầu nghề này chỉ làm lúc
nông nhàn với phụ nữ và trẻ em là chính, sản phẩm làm ra chưa thành hàng hóa
như sau này. Thời đó phải ra tận Thanh Hóa để mua các thứ vật liệu từ khuôn
nón, vành, lá, chỉ nên ít có người làm, mãi cho tới sau này, chủ yếu là trong
kháng chiến chống Pháp nghề chằm nón mới phát triển mạnh.
Năm 1947 quân Pháp đánh vỡ tuyến phong
thủ phía Nam sông Thu Bồn, nhân dân theo lệnh của Chính phủ Việt Minh thực hiện
vườn không nhà trống, tản cư hết vào Quế Sơn, Hiệp Đức. Ở đó bà con được đón
tiếp ân cần và bố trí nơi ăn ở chu đáo, đàn ông đi làm ruộng làm rừng, phụ nữ
và trẻ em làm nghề chằm nón. Quế Sơn có sẵn các loại vật liệu để làm chiếc nón
lá như tre để chẻ vành, lá nón có sẵn trên núi, có cây đoát để quấn vành và
chằm thay cho chỉ tơ và dầu rái để đánh nón khi chằm xong. Quế Sơn có chợ nón
là chợ Đụn ở xã Quế Thuận nên làm ra đến đâu bán ngay được đến đó, hồi ấy nghề
chằm nón đã góp phần chống đói cho dân tản cư. Sau khi cuộc kháng chiến chống
Pháp thắng lợi, đồng bào hồi cư đem theo nghề mới về quê, từ đó hình thành nên
các làng xã nhiều người chằm nón, như Duy An (thị trấn Nam Phước) Duy Thành,
Duy Phước số người bán nón nhiều nên chợ nón Mỹ Xuyên ra đời từ đó.
Để có được một chiếc nón hoàn chỉnh
phải qua 12 công đoạn từ chẻ vành, bắt vành, gở lá, ủi lá, xâu lá, lồng bài
thơ, chằm, nức vành cuối, soài vành chỏm, đánh dầu bóng, xỏ quai lơi, cột quai
nón, thông thường nón bán ra chỉ cần làm 10 công đoạn đầu phần còn lại người
mua tự làm theo ý mình. Ở đây chúng ta nên tìm hiểu trước về cái khuôn chằm
nón: Khuôn nón có nhiều loại như khuôn Huế, khuôn Quảng, nói về khuôn Quảng thì
có đến 16 vành (khuôn Huế chỉ có 12 vành) vành lớn nhất có đường kính 40cm các
vành từ nhỏ đến lớn đều được khắc thành gờ xâu trên kèo, khuôn có 12 cây kèo,
đầu nhỏ chụm vào nhau được xâu lại và chân kèo được cột bằng mây cám vào một
vòng tròn bằng tre ngâm gọi là nòng, kèo khuôn được làm bằng các thứ gỗ chắc
như lim, sến, dẽ là những loại gỗ không bị nứt thớ. Ở Mỹ Xuyên có nhiều thợ làm
khuôn nón có tiếng như ông Lục, ông Tính mà nổi tiếng nhất là ông Là (nay còn
truyền nhân là ông Nguyễn Văn Bổn). Về chẻ vành và bắt vành có ông Giác nay còn
lại ông Nguyễn Quang Cư và ông Nguyễn Ngọc Toản.
Về chằm nón nay còn lại rất ít người
như chị Khanh ở Xuyên Tây 1, chị Lượng ở Xuyên Đông 2 và một vài chị em khác
nhưng họ chỉ làm hàng đặt (ở đây gọi là nón dặn). Cũng nên nhắc qua những người
bán nguyên vật liệu để làm thành chiếc nón lá ngày trước. Bán lá nón có bà Hoa,
bà Hân, bà Thạnh, bà Hội, bà Bốn Ngẫu. Đục bài thơ có các ông Hươn, ông Tâm,
ông Phú, ông Tờn. Mua nón có chị em bà Sổ, bà Sách, mua để đóng thành cây mỗi
cây 500 chiếc để chở đi Sài Gòn có ông Sáu Sanh ông là ông Bảy Xá, ông Tỉnh...
Chợ nón Mỹ Xuyên (sau đó gọi là chợ
Xuyên Mỹ) đông từ lúc sáng sớm hàng ngày. Người mua đã quen mặt nên biết nón
của ai chằm đẹp mà không cần coi kỹ mà chỉ đếm số lượng và trả tiền, cũng có
khi người chằm mượn tiền trước chằm nón xong đem trả dần. Lúc nón lá ế ẩm có
câu tục ngữ chua chát "nghề xỏ lá chẳng khá hơn ai", nhưng có một
điều cần ghi nhận là vào những năm còn khó khăn, nghề chằm nón là nghề kiếm cơm
của người dân nghèo, thậm chí khi chạy giặc thì đầu đội chiếc khuôn, tay cầm
cái mác cái kéo, ôm bó lá vành, đi đến đâu cũng không sợ đói...Người dân vùng
này trong những năm chiến tranh ác liệt thời chống Mỹ, khi chạy lánh xuống Hội
An nay ra Đà Nẵng cũng mang theo nghề chằm nón lá, do đó có rất ít người phải
đi làm việc ở các nơi gọi là "sở
Mỹ".
Nguyễn Quang Cân