Những con đò nín lặng, gác mình nơi bờ bãi hạ lưu sông Thu. Mục ruỗng. Và
hiu quạnh. Ở đời, trong niềm vui của đám đông luôn có những ngậm ngùi đơn độc…
Những người đưa đò
ngang mấy mươi năm nay, từ bờ bắc sang bờ nam Thu Bồn, từ vùng cát Duy Hải, Duy
Nghĩa sang Cẩm Thanh về phố, cười với cây cầu Cửa Đại vừa kịp xong bằng những
nỗi lo cơm áo mai này. Họ vui vì quê hương sẽ đổi thay, “chắc chắn bà con đỡ cực
hơn”. Và, lẫn trong cuộc vui của bao nhiêu người hai bên bến sông Thu, là nỗi
nhớ quá khứ, nỗi lo ngày mai của những “bạn đò”.
Ám ảnh bến quê
Những ám ảnh bến quê
với tiếng gọi đò vọng trong sương sớm hay chiều tà, chừng như trở thành thứ ký
ức sắt son của người vùng sông nước. Mỗi một bến sông có thứ ký hiệu riêng để
làm nên “đặc sản” của mình. Khúc đầu nguồn, người ta “Quớ…. đò ơi”, vọng từ bên
ni sang bên tê để người lái đò kịp biết mà trở đầu ghe chở người sang sông. Ở
nơi cửa sông đổ ra biển, chùng chình giữa vùng đồng bằng và duyên hải, sông
rộng mênh mông, tiếng “quớ đò” lạc nhịp giữa gió thốc, nắng lộng. Vậy nên mỗi
bến quê khúc cuối dòng sẽ có vài con đò đợi sẵn. Ở đó có bến đò, có chợ, có đủ
sản vật quê xứ. Bến, còn có cả ngôi nhà của người lái đò. Tiếng gọi đò trở
thành tiếng kêu người trước mặt, người bên cạnh. Lòng sông rộng nên chuyến đi
vùng này luôn phải dài hơn đầu nguồn. Vì thế mà ra những gắn bó, ra những ruột
rà từ người dưng, ra cả những nỗi nhớ vô cùng… Tiếng gọi đò, hay “quớ đò”, thực
ra cũng chỉ là tên gọi, là ngôn ngữ để hành xử với tha nhân. Chỉ đọng lại là
bóng dáng những con đò ngang chòng chành mặt sông. Những đôi vai gầy guộc cõng
biết bao cuộc đời. Nhớ sông ít, nhớ đò nhiều. Nhớ những người lái đò nhẫn nại,
gan lì, da dẻ quánh lại, hừng hực màu của sóng nước.
“Chuyến đò năm ấy còn
không/ Mà sao bến cũ vẫn trông theo người?”, mấy mươi năm chở khách sang sông,
người đàn ông tóc đã luống bạc Đặng Công Tấn vẫn sơ nguyên cảm giác với sóng
nước Thu Bồn. Quá khứ nhiều khi như một phần thân thể của con người. Quá khứ
những năm chèo đò chở khách rã đôi tay. Quá khứ gợn lên nụ cười hoang phế bởi
những con đò gác đà nơi chân sóng. Những kỷ niệm đẹp, quê hương cất giữ. Những
kỷ niệm buồn, lòng mình tự cất giữ. Ở bên ni sông, Cẩm Thanh, nhìn về bên tê,
sóng xô trùng điệp. Mới năm ngoái thôi, ông Tấn bỏ hơn 20 triệu đồng để thay
lại mấy tấm ván lót bến đò. Vợ con, cả người làng Thanh Tam Tây (Cẩm Thanh) bảo
ông dở hơi, bởi độ chừng hơn năm nữa, cầu Cửa Đại thông xe, lấy ai đi đò mà sửa
bến. Nhưng ông… cũng cứ làm. Làm, bởi sự an toàn của những người dân. Làm, để
rồi bây giờ ngậm ngùi nhìn cảnh hoang vắng. Nhưng ông Tấn, vẫn thơ thới mà
rằng, cho dù ở đây không ai ra bến này để đi đò nữa, thì con bến vẫn cứ tồn
tại. Tôi hình dung con đò ký ức trong lòng ông Tấn như một sợi tơ trời phơi ra
những kiêu hãnh, để ở cõi ta bà này, dẫu bến xưa bụi phủ vẫn còn những mái đầu
nghiêng ngó chuyện ngày xưa. Cuộc đời, nhiều khi tưởng chuyện khơi khơi vô
nghĩa, nhưng lại chất trong đó quá nhiều ưu tư. Ông Tấn nói, cây cầu Cửa Đại là
ước mơ, là kỳ vọng của bao nhiêu người dân vùng cát. Ông vui, vì thương những
bổi rau liêu xiêu từ phía chợ Nồi Rang sẽ không còn cảnh nhọc nhằn mỗi lần
khiêng xuống bến đò. Người bạn đồng hành cuộc đời của ông Tấn, bà Đoàn Thị Vân,
cũng nói vui, vì phận đàn bà buôn bán xuôi ngược lại chịu cảnh đò giang thì vất
vả trần ai. Vui và lại nhớ thương... những người lái đò.
Cuối dòng sông Thu
Nhiều năm dài, đò đưa
khách sang sông. Duy có một nghề vậy, sáng 6 giờ cứ ở mãi trên sông đến 6 giờ tối.
Trong câu chuyện với ông Tấn, anh Tha, chú Bung, ông Pháp, anh Nhân… những
người lái đò cuối dòng sông Thu, đầu tôi chờn vờn hình tượng người lái đò sông
Đà của Nguyễn Tuân. Và những người lái đò cách thời Nguyễn Tuân mấy thập kỷ,
vẫn tráng kiện như vậy. Những hình ảnh này đã nên những hình tượng văn học. Nỗi
buồn ngày xưa lúc người lái đò bỏ bến bỏ thuyền, thì giờ, cũng nỗi buồn ấy,
nhưng là con đò bến cũ bỏ người. Sự tần tảo được nhuộm màu thuần khiết của
nước. Giữa cuộc mưu sinh, hình như nỗi nhọc nhằn phải nhạt đi, hoặc buộc phải
biến mất trước trời mây sông rộng. Nắng gió dòng sông sinh ra những con người
khẳng khái. Tôi hỏi Kiều Minh Tha, năm nay 35 tuổi, cả 4 miệng ăn chực chờ vào
con đò đậu bến chợ Nồi Rang, làm gì từ ngày rời tay lái đò? Tha cười nhuộm nắng
trả lời cộc lốc: “Đang học lái xe”. Nhưng vợ Tha, chị Nguyễn Thị Nga, dựng hàng
tạp hóa ngay bến đò, bẻ lại ngay: “Ổng học bữa đực bữa cái. Nói học rứa thôi,
chớ lái xe chừ khó lắm, không dễ ăn đâu”. Rồi những buổi chiều muộn mằn, cánh
lái đò hơn chục con người, lại ngồi với nhau ngay dưới chân cầu Cửa Đại, ở bến
Nồi Rang, uống chung rượu mà lòng bao nhiêu xáo trộn. Riêng vợ chồng Kiều Minh
Tha, Nguyễn Thị Nga, hơn 10 năm neo đậu bến đò, đứa con lớn 3 tháng đã bồng từ
nhà cha mẹ ra đây, ở tạm bợ vậy, bây giờ con lớn 10 tuổi, cũng đã có đứa thứ 2,
đôi vợ chồng này quen với từng nhịp sóng nước, từng người buôn rau, buôn cá. Da
thịt những đứa bé con ở bến đò mát rượi như dòng nước.
Ngược dòng thời gian
những ngày chinh chiến, bến đò Cẩm Thanh, bên kia là bến Duy Nghĩa, từng là nơi
dung chứa bao nhiêu chiến thuyền, để cả trong đêm đen đưa người về giải phóng
phố thị. Làng mạc xứ này tưởng như sinh ra là để chấp nhận cảnh đò giang, an phận
với những cuộc đời trưởng thành buộc phải ly hương, trăm năm vẫn vậy. Bây giờ,
cây cầu nối những bờ vui, chuyện ly hương sơ giản trong gang tấc, đặt chân qua
bên ni cầu cũng gọi là qua phố. Phố với quê gần vậy nhưng lại lệch nhau thăm
thẳm. Trở về với câu chuyện cánh lái đò, lên phố làm một cuộc mưu sinh khác
thôi, rời xa sông nước thôi. Nói thì nghe dễ vậy, nhưng chục con người đã quen
với chênh chao sóng nước, kiến thức chủ yếu là dòng chảy của sông, liệu có bon
chen được với dòng đời? Ông Phạm Bung, 56 tuổi, lớn nhất trong cánh lái đò, một
mình mang đơn cầu cứu vào tận tỉnh. Ông kể cán bộ tỉnh nói tiếp nhận ý kiến của
ông và sẽ trình lên cấp trên, bảo ông mang đơn về đợi tới ngày tiếp dân ở bên
cầu Cửa Đại rồi sẽ trả lời ông về hướng hỗ trợ với người lái đò.
Những chiếc đò đã gác
đà hơn tháng nay. Ông Tấn bến Cẩm Thanh có 4 chiếc, thì đã xẻ bản một chiếc,
bởi để lâu thì mục hết. Còn 3 chiếc, vẫn giữ để đợi hướng phát triển du lịch từ
địa phương. Bên kia, ông Kiều Hà còn nguyên cả 4 chiếc. Còn nhớ khoảng chừng 4
năm trước, chuyện đấu thầu để trúng bến ở hai bên bờ Cẩm Thanh, Duy Nghĩa làm
xôn xao cả một vùng xứ Quảng. Bởi để được chạy đò, một năm tiền cược từ năm
2011 đến nay lên đến hơn 1 tỷ đồng. Bà Vân, vợ ông Tấn nói, thiệt tình là mấy
năm trước, mỗi ngày thu được khoảng 4 - 5 triệu đồng là chuyện thường. Trả
lương cho nhân công lái đò, mỗi người trung bình một tháng hơn 5 triệu đồng, số
lợi nhuận còn lại ông bà thu được khá cao. Nhưng từ khi tiền cược bến nâng lên
gấp đôi (trước năm 2010 là 500 triệu đồng/năm), thì gần như chạy vừa đủ trả
lương nhân công. Đầu năm 2015 đến nay thì coi như trắng tay. Nhưng thương và lo
nhất vẫn là cánh nhân công chạy đò thuê lâu nay. Trước khi là chủ và kẻ làm
thuê, thì là anh em, là hàng xóm. Nên nỗi lo này, chẳng phải điều nói cho sướng
miệng. Tôi tin vậy. Bởi bây giờ hỏi ông Tấn, ông Hà, mong gì nhất, vẫn chung ý
nghĩ sẽ có chút đỉnh hỗ trợ cho các anh em nhân công chuyển đổi nghề nghiệp.
Những chuyến đò ngang
rồi sẽ mất dần và mất hút trước cuộc sống hiện đại. Đó là điều may mắn, là niềm
vui của người dân quê xứ sông nước. “Sông sâu sào vắn khó đò/ Muốn qua thăm bậu
sợ đò không đi”, giờ không còn nữa với người dân vùng cát Quảng Nam. Còn nhớ
non 1 tháng trước, khi cây cầu Cửa Đại vẫn chưa được phép đi, nhiều người dân
đã bất chấp mép cầu cao hơn 1m, giúp nhau khiêng từng chiếc xe để chạy trên cầu
mà về nhà.
Chiều muộn, ngược xe
lên phía cầu Cửa Đại, dướn mắt về phía hai bến đò - mới đây đã cũ, tựa như khúc
ca buồn ly biệt. Trong cuộc hành trình tiến về phố thị, mấy ai còn vương vất
những con đò ngang, sớm sớm, chiều chiều…
Ký của SONG ANH