Từ cái làng quê cổ Klamath Falls ở tận nước Mỹ xa xôi cho đến khi bước chân James Gion lang thang trong đền tháp cổ Mỹ Sơn ở Quảng Nam, cái không thể hiểu hết, cái bí mật mới là lý do cho mọi hành trình trôi về phía vô tận.
Gọi tên hai địa chỉ, một quê xứ của người bạn từ bên kia bờ đại dương, và một Mỹ Sơn - Di sản Văn hóa thế giới nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, là để tôi hình dung ra suốt con đường dài thăm thẳm in đầy dấu chân lang thang của một nghệ sĩ điêu khắc. Xưa - nay, chuyện những nhạc sĩ, thi sĩ từng nức tiếng giang hồ, tay đàn tay nải lang thang khắp mọi miền làm thơ, ca hát, có nghe thấy cũng chẳng lấy gì làm lạ. Nhưng, một nghệ sĩ điêu khắc với hàng “núi” dụng cụ đồ đạc lỉnh kỉnh, cùng với nguyên vật liệu mang theo để gọi là vừa lang thang vừa tác nghiệp trên đường xa, thì quả là chuyện lạ, chuyện ít thấy bao giờ. Huống nữa là một nhà điêu khắc người nước ngoài, lại càng hiếm hoi hơn.
Ấy vậy mà James Gion, một nhà điêu khắc ở tận cái làng quê cổ xưa Klamath Falls thuộc tiểu bang Oregon nước Mỹ, lại lựa chọn Việt Nam để có dịp phơi mở tình yêu của mình qua từng tác phẩm nghệ thuật trên mọi nẻo đường James đi qua. Mà nào phải một đôi lần ngẫu hứng lãng du gì đâu. Suốt từ 15 năm nay, hầu như năm nào James Gion cũng có mặt ở Việt Nam, chuyến đi nào cũng kéo dài vài ba tháng, có khi còn lâu hơn nữa. Lúc thì anh ở Sài Gòn - Bình Dương, khi thì James ở Đà Nẵng - Hội An, và cho đến cả những vùng đất Tây Nguyên. Có lần anh bảo tôi rằng: Không phải anh đến mà là anh về, Việt Nam tự bao giờ đã là quê hương tinh thần của James. Câu nói này, nếu nghe từ một người nước ngoài nào đó nói ra, thì tôi ngờ ngợ hiểu đó là cách nói lấy lòng, nói xã giao, nhưng với James, tôi tin câu nói ấy xuất phát từ lòng chân thành của một tâm hồn đa cảm.
Sau nhiều lần lưu lại ở Đà Nẵng, James Gion bây giờ đã là người bạn của gia đình tôi. Nói theo cách nói của thi sĩ Lưu Trọng Lư trong hồi ký “Nửa đêm sực tỉnh” mà tôi đã có lần đọc, rằng con người ta, có những chuyến tàu mà cuộc hội ngộ bất ngờ thành ra cả cuộc đời. James hội ngộ với Đà Nẵng hay với Việt Nam cũng thế, chuyến tàu ấy là chuyến tàu mang tên thời chiến tranh, để rồi một năm làm lính hải quân ở Tiên Sa - Đà Nẵng vào thời đó, có ai ngờ trở thành cái duyên cho cuộc hội ngộ bây giờ. Về Đà Nẵng, James đi lại như đi giữa quê nhà. Có lần tôi chỉ đường cho James tự đi lấy đất sét tại một nhà máy gạch tuynel ở Hòa Khương cách Đà Nẵng hơn 20 cây số. Vậy là anh nhảy xe buýt rồi cuốc bộ đến tận nơi, rồi chẳng những xin được đất sét, James còn kết bạn với giám đốc nhà máy để từ đó thêm một địa chỉ để tới lui. Dường như cả cuộc đời hoạt động nghệ thuật của James Gion thường gắn liền với những cuộc lãng du mà mỗi quãng lặng chính là lúc tác phẩm lên tiếng nói.
Trong chuyến trở về Việt Nam lần này, sau gần cả tháng bận rộn công việc ở Bình Dương, James mới ra Đà Nẵng. Dù là một nhà điêu khắc, nhưng lâu nay chưa bao giờ tôi nghe James nói về nghệ thuật điêu khắc Chăm, nhất là Mỹ Sơn - một cái khuyên son thường thấy trong sổ tay của khách du lịch. Hóa ra trong ký ức của anh còn có cả một bảo tàng Chăm ở Đà Nẵng, điều này tôi biết khi đọc được những dòng cảm tưởng của anh trong sổ tay hành trình: “Bảo tàng Chăm vào thời đó (tức thời chiến tranh) trong tôi, tất cả mọi thứ đã bị ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh, nhưng tôi vẫn cảm thấy một sợi dây kết nối với các nghệ nhân, những nhà điêu khắc đã tạc lên những nhân vật tuyệt mỹ vẫn trường tồn cả nghìn năm trước. Tôi không phải là một học giả nhưng vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của những linh hồn trong từng tác phẩm. Có lẽ tôi là một nghệ sĩ đã bị ảnh hưởng bởi những tác phẩm điêu khắc truyền thần này”. Thú thật, không biết James Gion có bị ảnh hưởng ít nhiều gì nghệ thuật điêu khắc Chăm hay không, nhưng có thực chứng bàn tay tài hoa của anh thể hiện qua từng tác phẩm, mới thấu cảm được tâm hồn nghệ sĩ ấy phơi bày cái đẹp đến nhường nào.
Lần này, James quyết thưởng ngoạn Mỹ Sơn một chuyến, cùng đi với James còn có vợ chồng người em trai của anh David Gion từ Hawaii mới sang Việt Nam, và Tịnh Giang – con gái của tôi làm hướng dẫn viên.
Thực ra, đi là đi cho có bạn chứ hướng dẫn nỗi gì! Với năng lực của James, rồi anh sẽ nghe ra đền tháp Mỹ Sơn, cả gạch đá cho đến từng cây cỏ rêu xanh Mỹ Sơn nói với anh về những biến dịch in rõ dấu thời gian đi qua. Vả lại, James thì đi đâu mà chẳng lè kè cuốn tự điển dày cộm bên mình. Tôi nói với James: giá như anh thuộc thơ “Điêu tàn” của thi sĩ Chế Lan Viên viết về “nước non Hời”, hay biết một ít về Kazimier Kwiatkowsky – một kiến trúc sư Ba Lan, người đã trùng tu di tích Mỹ Sơn, có khi lên đấy, cùng với những pho tượng Chăm, James sẽ gặp những linh hồn họ ca múa ngày ngày với Mỹ Sơn như nuôi dưỡng một sự sống vĩnh hằng.
Chẳng rõ sau một ngày lang thang cổ ngoạn Mỹ Sơn, những vị thần Visnu, Siva, Dvamapala… mê hoặc James một thứ thần khải đẹp đến nhường nào, mà khi về Đà Nẵng anh say sưa trò chuyện có khi giọng lạc thần, nói như một kẻ lên đồng: “Thăm thánh địa Mỹ Sơn tôi có thể cảm nhận được linh hồn trong từng pho tượng điêu khắc Chăm Pa vẫn trường tồn. Mặc dù chúng đã hao mòn theo thời gian và để lại những vết sẹo do chiến tranh gây ra, điều này càng làm tăng nhận thức mạnh mẽ về linh hồn vĩnh cửu, và sự bền bỉ với thời gian của những hiện thân xưa qua những pho tượng, thành cổ, cho dù vật thể của chúng đã bị xói mòn và hủy diệt. Tham quan Mỹ Sơn nhắc nhở tôi về lý do tại sao tôi muốn làm điêu khắc…”.
Vâng, tôi hiều đấy là cao trào của cung bậc cảm xúc, mà James Gion – mẫu nghệ sĩ kiểu như anh chừng như chất chứa đầy trong lồng ngực, hễ có dịp là phấp phỏng vỡ tràn ra - vỡ ra trên đôi mắt đắm say thể hiện niềm ưu tư, vỡ ra trên đôi bàn tay lúc chạm trổ hay lúc nắn nót từng vụn đất sét đắp thành một nguyên mẫu nào đó. Có lẽ đấy mới là thứ ngôn ngữ mà James thể hiện rõ nhất.
Tôi thường không gọi James Gion là một điêu khắc gia, hay đơn giản thông thường như người ta nói là một nhà điêu khắc. James chả có nhà có trại gì hết, anh là một nghệ sĩ điêu khắc lang thang. Với anh nghệ thuật là con đường, anh gieo trên con đường đó những giấc mơ về cái đẹp. Cứ thế qua mỗi cuộc lãng du, dường như James đều trở về tay không, nhẹ nhàng và thanh thản cùng với nụ cười mãn nguyện tươi rói trên môi.
Trả lời tôi hay là James nói với chính mình, một câu nói mà tôi đã thuộc lòng: “yes that seems to be my fate” (Tất nhiên, dường như nó đã trở thành định mệnh). Thì… định mệnh chứ còn gì nữa, từ buổi thanh xuân bước vào trường Đại học Oregon State đến khi cầm tấm bằng cử nhân mỹ thuật chuyên ngành điêu khắc, cho đến bây giờ nửa thế kỷ đã qua, con đường anh mở ra gieo cấy những giấc mơ vẫn không hồi kết thúc.
Mà quê xứ của James, cái làng quê cổ Klamath falls của anh, cũng là một định mệnh. Thuở xưa, miền đất này là quê hương của người Modoc – một bộ lạc của thổ dân châu Mỹ, cho đến ngày được thành lập thị trấn lấy tên là Linkville, nằm bên dòng sông Link và cái thác nước Tiwishkeni, cũng tức là trong lòng quê xứ ấy luôn ẩn chứa một tự nghĩa như một niềm bí mật, mà người địa phương diễn dịch tên cái thác nước ấy, nghĩa là: “Nước chảy trôi về đâu?”. Sẽ khó mà lý giải những gì thuộc về số phận. Nó là một ngẫu nhiên, một siêu lý? Hay là lý duyên khởi trong triết lý nhà Phật. Ngay cả James Gion cũng bảo chẳng thể nào anh hiểu hết.
Vâng, từ Klamath falls cho đến khi bước chân James Gion lang thang trong đền tháp cổ Mỹ Sơn, cái không thể nào hiểu hết, cái bí mật thăm thẳm mới là lý do cho mọi hành trình trôi về phía vô tận.
Bút ký NGUYỄN NHÃ TIÊN