Theo đó, đối tượng áp dụng thuế nhà thầu
mới quy định là Tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hoá tại Việt Nam theo
hình thức xuất nhập khẩu tại chỗ và có phát sinh thu nhập tại Việt Nam trên cơ
sở Hợp đồng ký giữa tổ chức, cá nhân nước ngoài với các doanh nghiệp tại Việt
Nam (trừ trường hợp gia công và xuất trả hàng hóa cho tổ chức, cá nhân nước
ngoài) hoặc thực hiện phân phối hàng hoá tại Việt Nam hoặc cung cấp hàng
hoá theo điều kiện giao hàng của các điều khoản thương mại quốc tế – Incoterms
(in cô tơm) mà người bán chịu rủi ro
liên quan đến hàng hóa vào đến lãnh thổ Việt Nam.
Thêm mới các đối tượng sau cũng chịu thuế
nhà thầu là Tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động
kinh doanh phân phối hàng hoá, cung cấp dịch vụ tại Việt Nam trong đó tổ chức,
cá nhân nước ngoài vẫn là chủ sở hữu đối với hàng hóa giao cho tổ chức Việt Nam
hoặc chịu trách nhiệm về chi phí phân phối, quảng cáo, tiếp thị, chất lượng dịch
vụ, chất lượng hàng hóa giao cho tổ chức Việt Nam hoặc ấn định giá bán hàng hóa
hoặc giá cung ứng dịch vụ; bao gồm cả trường hợp uỷ quyền hoặc thuê một số
tổ chức Việt Nam thực hiện một phần dịch vụ phân phối, dịch vụ khác liên quan đến
việc bán hàng hoá tại Việt Nam. Tổ chức, cá nhân nước ngoài thông qua tổ chức,
cá nhân Việt Nam để thực hiện việc đàm phán, ký kết các hợp đồng đứng tên tổ chức,
cá nhân nước ngoài. Tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện quyền xuất khẩu,
quyền nhập khẩu, phân phối tại thị trường Việt Nam, mua hàng hoá để xuất khẩu,
bán hàng hoá cho thương nhân Việt Nam theo pháp luật về thương mại.
Thông tư cũng quy định đối tượng chịu thuế
giá trị gia tăng là các trường hợp hàng hoá được cung cấp dưới hình thức: điểm
giao nhận hàng hoá nằm trong lãnh thổ Việt Nam (trừ trường hợp quy định tại khoản
5 Điều 2 Chương I, thông tư 103/2014 của Bộ tài chính); hoặc việc cung cấp hàng
hóa có kèm theo một số dịch vụ tiến hành tại Việt Nam như dịch vụ quảng cáo tiếp
thị, hoạt động xúc tiến thương mại, dịch vụ sau bán hàng, dịch vụ lắp đặt, chạy
thử, bảo hành, bảo dưỡng, thay thế và các dịch vụ khác đi kèm với việc cung cấp
hàng hoá (bao gồm cả trường hợp dịch vụ kèm theo miễn phí), kể cả trường hợp việc
cung cấp các dịch vụ nêu trên có hoặc không nằm trong giá trị của hợp đồng cung
cấp hàng hóa thì thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp của Nhà thầu nước
ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài là toàn bộ giá trị hàng hoá, dịch vụ.
Theo Điều 12, tại Thông tư 103/2014, quy
định cách tính số thuế giá trị gia tăng phải nộp cũng thay đổi là dựa trên
Doanh thu tính thuế giá trị gia tăng ( trước đây là dựa trên giá trị
gia tăng)
Số
thuế giá trị gia tăng phải nộp = Doanh thu tính thuế quy định X Tỷ lệ
% để tính thuế quy định trên doanh thu
Tỷ lệ % để tính thuế quy định trên doanh thu
cũng được điều chỉnh: Đối với ngành kinh doanh dịch vụ, cho thuê máy móc thiết
bị, bảo hiểm; xây dựng, lắp đặt không bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết
bị là 5%. Đối với ngành sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hóa;
xây dựng, lắp đặt có bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị là 3%. Đối
với hoạt động kinh doanh khác là 2%.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày
01/10/2014.