A+ A A-

Người đan lọng cuối cùng của xứ Quảng

     Không còn những buổi kinh lý của quân vương với “tàn che lọng rước”, và thi thoảng lắm mới thấy hình ảnh cây lọng, cây tàn ở lễ hội. Ấy thế, ông Nguyễn Quang Thiện (sinh năm 1933, ở làng Mỹ Xuyên, thị trấn Nam Phước, Duy Xuyên) lại gắn bó với nghề làm lọng từ ngày nhỏ cho đến tận bây giờ.

    

Ông Nguyễn Quang Thiện.   

   Ngay gian giữa nhà mình, trước bàn thờ gia tiên, ông Thiện dựng một cây lọng làm từ mấy mươi năm trước. Gian trái, ông treo nhị, trống, sến... Chái nhà, ông bày tre, vải... cùng những khung sườn lọng chưa hoàn thành. Ông là nhạc công nức tiếng của làng Mỹ Xuyên và là người làm lọng cuối cùng còn lại ở xứ Quảng. “Tôi học làm lọng lúc 10 tuổi, từ ông nội và cha. Nhà có nghề làm lọng gia truyền, đến tôi là đời thứ năm rồi”- ông Thiện nói. Những bí quyết để làm một cây lọng đúng chất cổ truyền, được ông kể vanh vách. Đầu tiên là ông tìm thân tre đực thẳng cao khoảng 2m, phơi khô đánh bóng làm thân lọng. Tiếp đến, lấy gỗ mít tiện thành hình khối có đường kính chừng 10 cm gọi là gen; trên đầu gen xẻ ra 46 hay 48 đường sâu (phải là số chẵn) để gắn những cây chống được làm từ nan tre, dài khoảng 30 cm có 20 lỗ khoan. Để khoan cây chống, ngày xưa phải dùng khoan tay, sau một ngày khoan, đến tối ông cầm trên tay một vắt cơm nóng, cái nóng của cơm làm dịu đi những cơ gân căng nhức.

    Những cây chống này xếp xen kẽ vào gen. Gen này đục rỗng ruột rồi di động một khoảng nhất định trên thân lọng, làm cho lọng giương lên hay xếp lại dễ dàng. Tiếp đến là cây sườn, cũng giống như cây chống nhưng dài hơn và được uốn cong một đầu, có 8 lỗ mạng và 1 lỗ cuối để nối với cây chống. Ráp cây sườn vào cây chống, ráp cây chống vào gen, ráp gen vào thân lọng, sẽ tạo thành một kết cấu giống hình chiếc dù, bán kính là 1,05m, đủ rộng để phủ lên áo lọng – là loại giấy dai bền hay vải the, phết cật hay sơn chống thấm, trang trí bằng các họa tiết rồng, phụng.

    Kỹ năng của người thợ là ở khâu thêu những hoa văn bao quanh cây chống và cây sườn. Đầu tiên là giăng kiên. Tiếp theo là đan chéo hạt cườm, rồi đan lát chả. Đan mạng nhện ở những giao điểm của cây chống và cây sườn và đan sao cho khít, tránh để lộ những giao điểm, đồng thời làm cho cây lọng khi giương lên căng cứng và thẳng góc với thân lọng. Phải chọn 7 màu len, phối màu sao cho hài hòa, bắt mắt.

    

   

Bộ khung lọng khi chưa thêu.   

    Nghề làm lọng ở nước ta bắt đầu từ thời Lê- Mạc, ông tổ nghề là Lê Công Hành. Lọng được gọi là dù thần hay dù quan. Ngày xưa, việc đi lại hàng ngày hay công cán của vua và quan lại đều sử dụng lọng. Tùy theo cấp bậc của quan mà chuyến công cán sẽ được bố trí bao nhiêu lọng và lọng có màu sắc gì. Như vua thì đi 4 lọng vàng, hoàng tử đi 4 lọng màu đỏ hay màu tía, các quan từ tuần phủ, đề đốc trở lên được đi bốn lọng xanh...

    Theo ông Thiện, không chỉ có thế, mỗi cây lọng còn có chất liệu và được trang điểm khác nhau tùy theo mỗi chức quan. Ông dẫn ra ví dụ: “Như lọng của vua có gắn thêm 28 bông bèo, làm bằng chỉ bào lấy ở bẹ lá cây thơm hoặc bằng bông nhuộm ngũ sắc, xâu chỉ thả lòng thòng dài rồi cột thắt vào nan lọng, chóp lọng bằng bạc màu vàng, cán bằng gỗ sơn son. Lọng của hoàng tử có đính 20 bông bèo, chóp lọng bằng màu thau mạ vàng, cán gỗ sơn son. Lọng của các tuần phủ, đề đốc trở lên có 16 bông bèo, chóp lọng bằng thiếc mạ bạc, cán bằng tre quét sơn màu cánh gián. Lọng các tân khoa cử nhân có 4 bông bèo, chóp sơn xanh...

    Lọng được dùng trong các dịp lễ hội cũng khác nhau. Ví như khi rước thần bậc thượng đẳng thì phải dùng 4 lọng màu vàng, mỗi lọng có đính 20 bông bèo, chóp thếp vàng. Rước thần bậc trung đẳng đi 4 lọng vàng, có 16 bông bèo, chóp bằng thiếc. Rước phúc thần đi 4 lọng xanh, có 12 bông bèo, chóp sơn màu trắng... “Bởi thế, khi làm ra cây lọng, người làm lọng phải biết nó sử dụng vào mục đích gì; bây giờ ở nhiều lễ hội người ta dùng lọng sai quy định truyền thống nhiều lắm” - ông Thiện nói. Nằm ở bờ nam sông Thu Bồn, làng Mỹ Xuyên được lập vào cuối thế kỷ XV, tiền hiền khai cơ là Chánh Đề đốc  Hùng Long Hầu Lê Quý Công, một vị tướng của vua Lê Thánh Tông. Hiện, làng còn lưu giữ được 32 đạo sắc phong vào các đời triều Nguyễn, là ngôi làng lưu giữ số lượng sắc phong nhiều nhất ở Việt Nam. Và làng còn có nghề làm lọng nổi tiếng. Theo ông Thiện, thời ông nội ông thì làng còn đến hơn 10 hộ làm lọng. Họ làm lọng phục vụ cho các lễ hội, cho quan lại ở dinh trấn Thanh Chiêm phía bên kia sông Thu Bồn, và làm theo đơn đặt hàng ngoài Huế.

    Với người Việt, nằm ngủ mơ thấy lọng là điềm lành trong thi cử, phát tài phát lộc, và lọng cũng theo chân các tân khoa trong ngày vinh quy về làng: Học trò đèn sách hôm mai/ Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào/ Làm nên quan thấp, quan cao/ Làm nên vọng tía võng đào nghênh ngang.

   Bây giờ, làng Mỹ Xuyên chỉ còn mỗi ông Thiện làm lọng. Hình ảnh lọng chỉ còn xuất hiện trong các nghi lễ ở đền chùa miếu mạo... Riêng ở Duy Xuyên, cứ đến ngày 12-2 âm lịch, chiếc lọng vàng uy nghiêm xuất hiện trong lễ hội Bà Thu Bồn, khiến nhớ đến Người mẹ xứ sở luôn hiển linh, che chở cho tâm hồn người xứ Quảng. Vì yêu nghề và nhớ nghề, mỗi ngày, ông Thiện vẫn đem hết tâm hồn mình thổi vào từng chi tiết, từng múi chỉ đường kim. Nhưng: “Mỗi năm người ta đặt hàng tôi 5 cái, mỗi cái bán hơn 1 triệu đồng, mà làm ra một cây phải mất gần nửa tháng. Tôi làm lọng để khuây khỏa tâm hồn thôi”–ông Thiện bộc bạch. Con cháu ông bây giờ không ai theo nghề, tuy buồn nhưng ông biết dòng đời đổi thay là vậy.

Mai Thành Dũng

 

DSVH THẾ GIỚI MỸ SƠN

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH

HỌC, LÀM THEO LỜI BÁC

AN TOÀN GIAO THÔNG

XÂY DỰNG ĐẢNG

 

Liên kết website

Thông tin cần biết

LỊCH VẠN NIÊN

Thăm dò ý kiến

Bạn thấy Portal đã đầy đủ chưa?

Đầy đủ dịch vụ - 50%
Chưa đầy đủ - 16.7%
Cần phải bổ sung thêm - 33.3%

Total votes: 6
The voting for this poll has ended on: 11 10 2016 - 00:00

Thống kê truy cập

19799896
Hôm nay
Hôm qua
4017
10160