Đã qua những ngày đông
buồn, xanh xám, lạnh lẽo. Mùa xuân như có phép màu gọi nắng ấm vàng tươi thổi
vào trời đất cho cây cỏ tươi xanh.
Từng quả hạt trong lòng đất cũng rạo rực
tách vỏ, nảy mầm, nhú lộc, đâm chồi. Làng quê cảnh sắc đổi thay như cô gái làng
bất ngờ một sáng kia khoác lên mình bộ cánh mới bước ra phố phường. Những ngõ
tre làng với nỗi niềm đông cũ, rả rích mưa phùn trên lối đường bùn đất, những
phiến lá vàng úa đã không còn. Thay vào đó là những lũy tre thanh thoát vươn
cao, vi vút ngọn gió đồng cuốn theo đôi tiếng chim buổi sớm trong lành. Ôi thân
thiết biết mấy những lũy tre, những cây tre thủy chung một đời cùng người dân
quê tôi “một nắng hai sương”.
Tản mạn cùng tre, tôi chợt
nhớ bút ký của nhà văn Thép Mới được trích giảng học thời phổ thông. Đây cũng
chính là lời bình phim tài liệu nói về dân tộc Việt Nam thông qua hình ảnh cây
tre được thực hiện vào năm 1958 của Thép Mới và một đạo diễn người Ba Lan khi
sang Việt Nam. Những câu văn và hình ảnh cây tre vừa đẹp đẽ vừa gần gũi, tình
cảm đã để lại trong tôi thật nhiều cảm xúc, dự cảm tốt đẹp: “Các em, các em
rồi đây lớn lên, sẽ quen dần với sắt thép và xi măng cốt sắt. Nhưng nứa, tre sẽ
còn mãi với các em, còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia bùi sẻ ngọt của những
ngày mai tươi hát, còn mãi với chúng ta, vui hạnh phúc hòa bình. Ngày mai, trên
đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường ta
dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ
càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng.
Tiếng sáo diều tre cao vút mãi”...
Tôi nhớ ngày quê hương giải
phóng, sau bao năm loạn lạc, ba dắt díu mấy chị em tôi về lại quê cũ. Làng mạc
lúc bấy giờ sau bao năm chiến tranh tàn phá là dấu tích những vết đạn trên thân
dừa trước ngõ ngôi nhà của nội, là mấy cột gỗ cháy rụi, những mảnh vườn hoang,
cây cỏ lút đầu. Đêm nằm trên mấy tấm ván cửa, khi chưa dựng được nhà, hễ nghe
đất lở cái ào, ba tôi lại thấp thỏm vào ra, ông bảo bụng nóng quá không sao ngủ
được. Tôi biết ông lo mồ mả ông bà trên những mảnh vườn bị đất lở cuốn đi. Thế
là ngày này qua ngày khác ba tôi kiên trì trồng tre khắp các bờ vườn để giữ
đất. Mà đúng thật, không có loài cây nào giữ đất bằng tre. Tre phát triển thành
tường rào rất chắc chắn. Chim chóc về xây tổ, đặc biệt có loài chim dột dột cần
mẫn về làm tổ ở tận chót vót ngọn tre rất đẹp. Tổ chim có thể coi là công trình
kiến trúc độc đáo, gió đưa bay vi vút theo ngọn tre nhưng không bao giờ hư
hỏng.
Tuổi thơ rồi cũng qua đi.
Lũ trẻ chúng tôi lũ lượt lớn lên, như loài chim non ra ràng lại đi xa tổ. Nhưng
làm sao quên những trưa hè đầu trần dang nắng đi khắp vườn tìm tổ bắt chim. Làm
sao quên tiếng cuốc lẻ bạn canh khuya vọng vào từ những lũy tre xanh…
Về quê giờ đây những bờ tre
đã ít đi nhiều. Có lẽ do lợi ích kinh tế, tre bị phá bỏ để con người trồng vào
đó các loài cây có giá trị kinh tế cao hơn. Đúng như tiên đoán của nhà văn Thép
Mới, tre hôm nay đã ít đi, thay vào đó là các công trình sắt thép xi măng,
nhưng cây tre vẫn còn gắn bó với con người, tre vẫn ăn ở với người đời đời kiếp
kiếp. Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhắm
mắt xuôi tay nằm trên giường tre, tre với mình, sống có nhau, chết có nhau,
chung thủy.
Vật dụng gần gũi nhất của
cây tre, dân quê ai mà không biết đến cây đòn gánh. Thuở thời ba tôi rất khéo
tay đẽo đòn gánh. Bà con trong xóm ai cũng nhờ, nhất là những người chuyên bán
hàng gánh. Kinh nghiệm của ba mà tôi biết, tìm gốc cây tre đẽo đòn gánh không
cần to lắm, không cộc ngọn, không bị kiến làm tổ trong ống. Đó là đoạn tre gốc,
phải có đốt đều nhau, lóng dài thì bảy đốt, lóng trung bình thì chín đốt… Mọi
người kiêng đòn gánh có đốt chẵn, đòn gánh vênh. (Đòn gánh chẵn đốt thì không
có lộc buôn, lộc bán; đòn gánh vênh nghiến vào đau vai và gặp nhiều chuyện
không hay). Nghe đâu chuyện từ cây đòn gánh, một nhà văn nước ngoài đến Việt
Nam đã hào hứng mô tả, những bà hàng rong có thể nhún nhảy bên phải bên trái đi
ra khỏi ngõ. Và nhà văn đó đã kết luận cây đòn gánh là vật lãng mạn nhất phương
Đông.
“Lưng cây đòn gánh mòn
trơn/ Lời tre khô nhắc công ơn mẹ già”. (Không rõ tác giả).
Cây tre khi đã hóa thân
thành cây đòn gánh cũng đã trở thành nét đẹp của tính cách Việt Nam. Làng tôi
một bên núi một bên sông, hầu hết gái làng đều biết gánh nước. Tắm giặt có thể
ở sông, nhưng phải gánh nước về nhà để nấu ăn. Với bản tính chịu thương chịu
khó, con gái nhà nào lớn lên cũng biết gánh gồng nên chỗ vai áo thường sờn là
vậy.
Nhớ nhất thời nhà tranh,
phên tre. Chuẩn bị đón tết cũng là lúc ba tất bật đốn tre, chẻ tre đan những
tấm phên tre mới. Tuổi thơ, sự háo hức trông đợi của tôi chạy theo những con
nang ba đan để có tấm phên mới cho ngôi nhà đón tết.
Chợt nhớ nhà thơ Nguyễn Duy
có bài thơ viết về cây tre, một biểu tượng hồn cốt của dân tộc Việt Nam, con
người Việt Nam mà theo người viết bài này có lẽ chưa có bài thơ nào hay hơn
thế: “Tre xanh xanh tự bao giờ?/ Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh…”.
Và cây tre cũng giống như
con người Việt Nam ở những đức tốt đẹp.
“…Rễ siêng không ngại đất
nghèo/ Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù/ Vươn mình trong gió tre đu/ Cây kham
khổ vẫn hát ru lá cành/ Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh/ Tre xanh không đứng khuất
mình bóng râm…”.
Tre gần gũi với con người
biết bao. Tre là nguồn vui cho trẻ thơ từ chiếc thuyền lá tre ngày mưa đến que
chuyền đánh chắt. Lớn lên, tre bắc cầu cho tình duyên đôi lứa. Dưới bóng trăng
thanh treo đầu ngọn tre, các chàng trai cô gái trao nhau những lời giao duyên,
tình tứ: “Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng/ Tre non đủ lá đan sàng
được chưa?”. Còn khi đôi lứa đã bén duyên: “Lạt này gói bánh
chưng xanh/ Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng…”.
VÕ VĂN TRƯỜNG