Công ước của Liên Hợp
Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 đến nay có 154 quốc gia và EU tham gia ký kết.
1.Đường cơ sở: Là đường ranh giới phía trong của lãnh
hải và phía ngoài của nội thủy, do quốc gia ven biển hay quốc gia
quần đảo định ra phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm
1982 để làm cơ sở xác định phạm vi của các vùng biển thuộc chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia gồm (lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa).
2.Lãnh hải hay hải phận là vùng biển ven bờ
nằm giữa vùng nước nội thủy và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia.Lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý tính từ
đường cơ sở. Chủ quyền của quốc gia đối với vùng lãnh hải không phải là
tuyệt đối như đối với các vùng nước nội thủy, do có sự thừa nhận quyền qua lại
vô hại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải.
Cũng lưu ý rằng chủ
quyền của quốc gia ven biển được mở rộng hoàn toàn và riêng biệt đối với vùng
trời trên lãnh hải cũng như đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của
vùng lãnh hải này. Trong vùng trời phía trên lãnh hải, các quốc gia khác không
có quyền tự do qua lại vô hại đối với các phương tiện bay (máy bay chẳng
hạn). Đối với đáy biển và lòng đất dưới đáy biển,quốc gia có quyền định đoạt.
.
3.Vùng đặc quyền kinh tế
(EEZ) là vùng biển mở
rộng từ các quốc gia ven biển. Đây là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường
cơ sở. Quốc gia ven biển có quyền về chủ quyền, quyền tài phán và quyền kinh tế
ở vùng biển này.
Quyền chủ quyền về kinh
tế bao gồm các quyền đối với khai thác tài nguyên sinh vật, tài nguyên không
sinh vật của cột nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển. Hoạt động khai thác tài nguyên trên vùng đặc quyền kinh tế đem lại lợi
ích cho quốc gia ven biển như khai thác năng lượng nước, hải lưu, gió... Mọi tổ
chức, cá nhân nước ngoài muốn khai thác tài nguyên trên vùng đặc quyền kinh tế
phải có sự xin phép và đồng ý của quốc gia ven biển.
Quyền tài phán trên vùng
đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển bao gồm quyền lắp đặt, sửa chữa các đảo
nhân tạo, công trình, thiết bị trên biển; quyền nghiên cứu khoa học biển; quyền
bảo vệ môi trường. Các nước khác có quyền tự do bay, tự do hàng hải và đặt dây
cáp, ống dẫn ngầm tại vùng đặc quyền kinh tế.
4.Thềm lục địa:
Thềm lục địa là vùng đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của Quốc gia ven biển,
trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này cho đến bở
ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần
hơn 200 hải lý. Trong trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia ven biển
kéo dài tự nhiên vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có
thể mở rộng ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một khoảng cách không
vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2.500 m một
khoảng cách không vượt quá 100 hải lý.
Quốc gia ven biển thực
hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác
tài nguyên thiên nhiên của mình. Đây là những đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia
ven biển này không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên
nhiên của thềm lục địa (bao gồm các tài nguyên phi sinh vật và các tài nguyên
sinh vật thuộc loài định cư), thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như
vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của các quốc gia ven biển. Các quyền
của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa tồn tại một cách “nghiễm nhiên”,
không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ
tuyên bố rõ ràng nào.
Tuy nhiên, khi tiến hành
khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý, quốc gia ven biển có nghĩa vụ đóng góp
tài chính theo quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không
được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia đều có
quyền lắp đặt cáp và ống dẫn ngầm ở thểm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống dẫn
ngầm phải thỏa thuận với quốc gia ven biển về tuyến đường đi của cáp hoặc ống
dẫn ngầm./.
VOV online